Chỉ có ý chí cứng rắn của người đọc mới đủ để tránh những trường hợp xa rời tính khách quan biện chứng. Họ tin rằng chỉ có những cuốn sách khoa học và triết học mới thoả mãn được các tiêu chí đặt ra. Từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa là ý kiến đúng.
Chúng tôi hy vọng bạn sẽ thử đọc năm bản trưởng ca vĩ đại nói trên và bạn sẽ hiểu được toàn bộ nội dung ẩn chứa trong dó. Theo quan sát của họ (không dùng kính viễn vọng), dường như các thiên thể chỉ thay đổi vị trí, chúng dường như không sinh ra và cũng không mất đi như cây cỏ hay muông thú, chúng cũng không thay đổi về kích thước và chất lượng trong khi tất cả các vật thể trên trái đất đều thay đổi về nhiều khía cạnh chứ không phải chỉ về vị trí. Ngược lại, bạn phải đọc chủ động, tức là phải thực hiện tất cả các bước đọc phân tích mà chúng tôi đã nêu.
Nhưng bạn không thể đọc sách một cách chung chung, không cụ thể. Thứ nhất, không phải bao giờ các nhà bình luận cũng đưa ra những nhận xét đúng về một cuốn sách. Họ có thể biết rõ chuyện gì đang diễn ra ở một khu vực cụ thể và thuật lại các sự kiện đó trên báo, tạp chí hoặc viết thành sách.
Nói ngắn gọn, đọc đồng chủ đề xét trên phương diện lớn là một bài tập dịch thuật. Chúng tôi không gọi đây là những quy tắc, dù hoàn toàn có thể gọi thế vì nếu bỏ qua bất cứ bước nào, việc đọc sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều, thậm chí là không thể. Nói cách khác, lời giải thích một hiện thực hay một phần của nó, không phải là dữ kiện trừ phi phần đông nhất trí điều đó là đúng.
Đài phát thanh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin khi chúng ta đang bận làm các công việc khác (như lái xe), đồng thời giúp chúng ta tiết kiệm được nhiều thời gian. Thực tế là với sách tồi, không có gì cần phải nắm bắt cả. Ví dụ, trong suy nghĩ của một nhà nghiên cứu nguyên tử thường tồn tại một cấu trúc phức tạp mang tính giả thuyết về hiện thực, khiến ông ta nhìn nhận một số dữ kiện theo hướng khác với một người nguyên thuỷ.
Nhưng bây giờ bạn phải đọc sách của nhiều tác giả và chưa chắc họ sẽ sử dụng các từ khoá hay các thuật ngữ giống nhau. Khi đọc các tác phẩm mang tính mô tả, giải thích, bạn cũng nên áp dụng quy tắc này. Trong số này, các tạp chí tin tức giúp độc giả chọn ra những yếu tố quan trọng nhất.
Những câu hỏi cần phải trả lời trong lần đọc kiểm soát gồm: (1) Đó là loại sách gì? (2) Toàn bộ cuốn sách nói về vấn đề gì? (3) Trật tự cấu trúc của cuốn sách mà qua đó tác giả phát triển ý đồ hoặc hiểu biết của mình về chủ đề chung của cuốn sách là gì? Bạn có thể và cũng nên ghi chú những ý liên quan đến các câu trả lời cho những câu hỏi này, nhất là khi bạn biết rằng phải nhiều ngày hoặc nhiều tháng sau bạn mới có thể quay lại đọc cuốn sách ở cấp độ phân tích. Trên thực tế, tất cả mọi điều mà một người viết về một chủ đề nào đó đều là tự thuật. Bạn không nên làm phong phú thêm vốn từ vựng của mình một cách nhanh chóng bằng cách ghi nhớ hàng loạt từ mà nghĩa của chúng không gắn với bất kỳ tình huống thực tế nào.
Người đọc sách thông minh là người biết áp dụng các phương pháp và kỹ năng đọc khác nhau cho các loại văn bản khác nhau, để vừa thu được thông tin nhanh vừa hiểu thấu đáo các vấn đề được nêu, trong chừng mực thời gian cho phép và tuỳ theo mục đích của mình. Ngược lại, sách triết học quy phạm quan tâm chủ yếu đến các mục tiêu mà mọi người nên tìm kiếm như sống tốt hay xây dựng một xã hội tốt. Ai cũng khuyên bạn nên đọc chúng và bạn được giao cho một chương trình đọc từ các tác phẩm dễ tới các tác phẩm khó hơn.
Nhưng nó tự khẳng định mình dù đã đến bờ vực của sự diệt vong. Bạn có thể kể lại kinh nghiệm nào của bản thân mà nhận định đó miêu tả, hoặc chỉ ra mức độ phù hợp giữa nhận định của tác giả với thực tế trải nghiệm của bạn không? Bạn có thể minh hoạ cho chân lý đã được phát biểu bằng những ví dụ cụ thể hay không? Tưởng tượng ra một trường hợp khả thi cũng hiệu quả không kém việc nêu ra một tình huống thật. Một tác giả viết theo lối hàm ngôn không có nghĩa tác giả đó đưa ra một thuật ngữ.
Khi giữ được lý trí, con người có thể vượt qua những trở ngại, và dàn xếp được những bất đồng do hiểu lầm. DỮ KIỆN LÀ NHỮNG NHẬN ĐỊNH ĐÚNG. Chúng xuất hiện khi người viết muốn tránh tình trạng mập mờ về nghĩa, và người đọc cố hiểu từ đó theo đúng ý người viết đã dùng.