Để nhớ rõ điều này, bạn cần phân biệt hệ thống từ vựng và hệ thống thuật ngữ của tác giả. Ví dụ chúng ta quan tâm đến chủ đề thực thi pháp luật và đọc năm, bảy tác phẩm viết về chủ đề này hoặc chúng ta thích những đề tài như mối quan hệ giống loài, giáo dục, thuế khoá hay những vấn đề của giới chức trách địa phương nhưng không chỉ có duy nhất một tác phẩm chính thức nào nói về bất cứ chủ đề nào trên đây nên chúng ta phải đọc rất nhiều tác phẩm. Hầu hết các cuốn sách lớn vè kinh tế học, chính trị, đạo đức đều thuộc loại này.
Sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau như Pháp, Thụy Điển, Đức, Tây Ban Nha và Italia. Nhưng dù thông tin có được sắp xếp lại hay không thì bản thân bên trong tài liệu phải ngầm chứa một câu chuyện. Ví dụ, trong cuốn sách thực hành về đọc này, chúng tôi đã cố gắng giải thích cho độc giả hiểu các quy tắc thông qua những lý luận ngắn gọn về các nguyên tắc ngữ pháp, tu từ và logic.
Ngoài ra, bạn cũng đừng cố nhồi nhét, học thuộc cả một cuốn từ điển. Từ những lập luận trên, chúng ta có thể rút ra các quy tắc để sử dụng từ điển một cách thông minh. Hãy đọc tiểu sử như đọc sách lịch sử, hãy xem những cuốn tự truyện một cách ý nhị và đừng quên là không được tranh luận về cuốn sách cho tới khi đã hiểu cặn kẽ nội dung sách.
Luật phát tốt không phụ thuộc vào lực lượng vũ trang tốt. Nếu một triết gia thiếu nhất quán, bạn phải quyết định chuỗi nhận định nào là điều mà họ ngụ ý: hoặc là những nguyên tắc ban đầu họ nêu hay là những kết luận không tuân theo các nguyên tắc đã nêu ban đầu hoặc bạn có thể quyết định rằng không có cái nào có giá trị cả. Trẻ em luôn đặt những câu hỏi kỳ diệu như: Tại sao là con người? Cái gì làm cho con mèo chạy được? Tên ban đầu của thế giới là gì? Thượng đế có lý do để tạo ra trái đất không? Đó là cách thể hiện sự tìm kiếm tri thức của trẻ em.
Theo quan điểm triết học, văn phong cách ngôn hoàn toàn không phù hợp. Trong trường học, học sinh đọc các loại sách khó thường có sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Thứ nhất là chỉ khi đã hiểu những gì đang được nói đến, chúng ta mới có thể đánh giá một tác phẩm lịch sử nào đó có vẻ không thật.
Những độc giả ham đọc có khi cũng chỉ áp dụng những điều tương tự dàn ý trên với một vài cuốn sách. Nhưng cơ bản, có ba câu trả lời chính là: có, không, và chúng ta không thể biết được. Khi sáng tác các tác phẩm mô tả, tác giả cần vận dụng ngôn ngữ một cách tốt nhất.
Thường trong các kịch, tác giả không thể nói trực tiếp với độc giả suy nghĩ của mình như các tiểu thuyết gia thường làm. Chúng ta biết rằng, sự xuất hiện của toán học trong sách khoa học là một khó khăn đối với người đọc. Hiếm khi có tác giả nào một mình một quan điểm trong tình huống gây tranh luận.
Để trả lời câu hỏi này, bạn vẫn phải tìm hiểu thuật ngữ, nhận định và lý luận mà tác giả sử dụng. Tức là, chúng ta không có nhiều cơ hội để biết được sự thật của vấn đề, biết chuyện gì thật sự đã xảy ra. Những câu như vậy rất khó phân tích.
Trong khi đó, phong cách viết trong hầu hết các lĩnh vực phi toán học lại thường trình bày hai hay nhiều lập luận trong một đoạn, hoặc sử dụng vài đoạn để trình bày một lập luận. Hoạ sỹ và nhà điêu khắc chắc hẳn phải tuân theo các quy luật này, nếu không họ đã không thể sáng tác được. Tác giả sách thực hành có thể viện đến nhiều yếu tố để thuyết phục người đọc rằng các quy tắc nêu trong sách là hợp lý hoặc minh họa sự hợp lý đó bằng cách cho người đọc thấy được cách thức hoạt động của chúng trong trường hợp cụ thể.
Còn với những vấn đề do khoa học xã hội giải quyết, chúng ta thường có những ý kiến hết sức mạnh mẽ. Bạn tưởng mình đã xác định đúng vị trí của một từ và cách ghép nó vào bức tranh, nhưng sau đó lại phát hiện ra mình đã nhầm và phải điều chỉnh lại một loạt. Khi mua một cuốn sách, bạn đã thiết lập quyền sở hữu với nó.